Tên di sản : Đền Xuân Đài
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : 69 /QĐ-CT
Giới thiệu
Đền Xuân Đài nằm ở trung tâm làng Xuân Đài, quay mặt về hướng Nam. Ở đây rất thuận lợi về giao thông thuỷ bộ. Con đường tỉnh lộ chạy ven bờ biển đi qua đền ở phía đông, chạy nối từ đường 10 ở xã Nga An, qua Nga Thành, Nga Liên, Nga Thanh đến Nga Thuỷ, được rải nhựa đã làm cho khu di tích này càng trở nên thuận tiện. Liền sát với con đường tỉnh lộ là cánh đồng cói bạt ngàn chạy tới sát bờ biển. Về phía Nam của ngôi đền là làng xóm của xã Nga Thuỷ được cấu tạo như những ô bàn cờ chạy dọc theo bờ biển sát với cửa Lạch Sung - một cửa của dòng sông Mã. Về phía Bắc là một vùng dân cư đông đúc của các xã Nga Thuỷ, Nga Thanh, Nga Liên - vùng đất nằm trong vùng Tam tổng được hình thành từ giữa thế kỷ XIX. Về phía Tây là xã Nga Hưng, Nga Mỹ với những xóm làng sầm uất được hình thành từ lâu đời. Có thể nói, địa điểm xây dựng đền Xuân Đài ở xã Nga Thuỷ nằm ở vùng đất sát cửa biển, nơi có một cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ, hùng vĩ.
Về quy mô cấu trúc:
Cổng Nghinh Môn (3 cửa ra vào) của lớn ở giữa, hai cửa nhỏ 2 bên được xây dựng gần giống cổng Tam quan chùa. Hai cửa nhỏ 2 bên gồm 1 tầng mái cong, ở trên được gắn ngói ống, phía trong cuốn vòm. Cửa giữa gồm 2 tầng mái cong, mái gắn ngói ống, đỉnh mái trên được đắp hình Lưỡng long chầu nguyệt, phía trong vòm cuốn. Tiếp đến là bức bình phong dài 3,2m. Sân đền có diện tích 180m2. Trên bình phong có gắn 2 tấm bia công đức ở hai mặt.
Kiến trúc chính của đền thờ có nhà Tiền đường 5 gian với diện tích 935m2 (dài 17m x rộng 5,5m). Kết cấu vì kèo theo kiểu Kèo Cầu - Cánh Ác gồm 2 kẻ dài gác chéo nhau theo chiều dốc mái, ăn mộng với nhau ở đỉnh vì, đỡ thượng lương rồi chạy xuống đầu tường đốc. Hai cột trốn đứng chân trên quá giang, vươn lên ăn mộng vào đầu kèo - có nhiệm vụ tạo thêm lực cùng với kèo để đỡ mái. Để liên kết 2 cột trốn là một câu đầu. Toàn bộ 6 vì kèo này cơ bản giống nhau về kiểu liên kết. Không có chạm trổ, tất cả được bào trơn đóng bén. Kiểu liên kết vì kèo này đã có rất sớm trong kiến trúc cổ truyền Việt với nguyên liệu tre. Tuy nhiên, trong kiến trúc gỗ, nó có niên đại rất muộn và tới thế kỷ XIX mới tương đối phổ biến. Chúng ta thường gặp kiểu liên kết này ở các kiến trúc dân dụng. Lối kết cấu này thường được gọi là kiểu vì kèo (5 kiểu kiến trúc chính của bộ khung gỗ truyền thống Việt Nam). Ngoài nội thất, hiên Tiền đường được xây vòm cuốn có diện tích 34m2 (dài 17m x rộng 2m). Hai bên tả, hữu được đắp tượng hộ pháp đứng canh. Liền kề với nhà Tiền đường là nhà Trung đường có diện tích 840m2 (dài 15m x rộng 5,6m). Kết cấu vì kèo giống nhà Tiền đường. Tiếp đến là nhà Hậu cung nằm dọc theo nhà Tiền đường, được cấu trúc gồm 2 gian. Gian trong (nơi thờ Trần Hưng Đạo) có diện tích 10,5m2 (dài 3,5m x rộng 3m); gian ngoài diện tích 12,9m2 ( dài 3,6m x rộng 3,6m).
Nhìn chung, quy mô cấu trúc của đền Xuân Đài là một đền thờ lớn so với một số đền thờ danh nhân khác. Quan trọng hơn nó lại là một trong 3 ngôi đền chính thờ “Đức Thánh Trần” Ở Thanh Hoá, là nơi hội tụ của du khách thập phương, đặc biệt ở Nga Sơn và cư dân vùng ven biển - do đó nó trở thành một di tích trọng điểm.
Về nghệ thuật kiến trúc:
Điều đáng chú ý ở đây là kiến trúc gỗ theo lối cổ truyền dân tộc (có nghĩa là các thành phần cấu trúc của vì kèo gỗ) đã có sự biến thể và cách tân. Các cửa ra vào đều xây theo kiểu vòm cuốn. Hậu cung, Hiên Tiền đường cũng xây vòm cuốn. Ở đây, các hàng chân cột gỗ để đỡ quá giang (ở Tiền đường và Trung đường) được thay thế bằng những trụ gạch phù hợp với cấu trúc của nó. Ở phần tiếp giáp giữa nhà Tiền đường và nhà Trung đường, ngoài những trụ gạch đỡ các vì kèo còn có 1 bức tường đốc ngăn cách giữa nhà Tiền đường và nhà Trung đường. Ở đây được tạo các cửa ra vào ở 3 gian giữa, còn hai bên được xây bịt, ngăn thành gian. Gian giữa được đặt bàn thờ Hội đồng các quan, gian bên phải được bài trí thờ người có công khai dân lập ấp Trần Khắc Mẫn, gian bên trái thờ Mẫu (Tam toà thánh mẫu). Ở nhà Trung đường trên các cửa ra vào và cả bước gian được đắp nổi, vẽ sơn những bức y môn và cuốn thư đã tạo nên một không gian thiêng của nội thất toà nhà.
Nhà Chính tẩm chia thành 2 cung: Trong cùng là cung cấm, nơi Long ngai và tượng Đức Thánh Trần. Tượng bằng đá trắng được tạo tác ở tư thế ngồi, tay để trên đùi, đầu đội mũ đỉnh bình. Thân tượng được phủ một lớn sơn son thếp vàng, ngoài cùng được phủ áo vải màu vàng. Tượng có chiều cao 80cm, rộng 40cm. Đây là một trong những pho tượng đá đặc biệt có giá trị về nghệ thuật tạo tác tượng. Cung ngoài là nơi thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão.
Phần ngoại thất của công trình được cấu trúc theo lối cổ diêm để ngăn cách giữa mái trên và mái dưới ở nhà Tiền đường. Trên đỉnh mái là hình mặt nguyệt, hai đầu nóc là hình 2 con kìm đắp nổi trong tư thế bò vào phía trong. Khoảng cách giữa mái trên và mái dưới là hệ thống cổ diên. Trên bề mặt cổ diêm này được ngăn cách thành 3 ô. Ô giữa được gắn 4 chữ Tướng Đế Long Cung, bằng những mảnh gốm vỡ lên mặt vôi vữa. 4 ô hai bên là hình rồng và phượng đắp nổi. Phía mái dưới sát tàu mái ở phía trên là hình rồng đắp nổi chạy suốt chiều dài của tường trên của hiên mái. Ở giữa là hình cuốn thư. Trên cuốn thư cũng được đắp 3 chữ bằng mảnh gốm vỡ lên bề mặt vôi vữa “Tối linh từ”.
Như vậy, với nghệ thuật kiến trúc trên, Đền Xuân Đài là một trong những công trình nghệ thuật kiến trúc nửa cuối triều Nguyễn. Và ở đây một trong những nét đặc trưng tiêu biểu của nghệ thuật Nguyễn được thể hiện bằng sự trang trí chất liệu sơn son và những mảnh gốm vỡ trên bề mặt, nhằm mục đích tạo nên sự lộng lẫy của công trình.
Các hiện vật có giá trị trong di tích:
Đền Xuân Đài là nơi lưu giữ một số lượng hiện vật với nhiều chất liệu vô cùng phong phú.
Gian Chính tẩm:
Tượng Trần Hưng Đạo (đá) ngồi trong Long Cung
Kiệu Long Đình
1 đôi hạc sứ
2 hộp đựng sắc phong
1 bát hương (thời Mạc)
1 đài rượu
2 mâm bồng
2 ống hương
1 Lư hương đồng
2 hạc đồng
Tranh tượng Phạm Ngũ Lão
1 bát hương Sứ
7 mâm bồng
2 khay mịch
1 chiêng đồng
1 giá chiêng
2 cây nến.